Duỗi một chút
Áo lụa Hà Đông - không xấu hổ khi nhận là phim nước mình
Xác nào là em tôi
dưới hố hầm này
trong những vùng lửa cháy
bên những vồng ngô khoai
Trong một lớp học của trường trung học Hội
An, cô bé học sinh với chiếc áo dài trắng có một vết mực tím
loang nhàn nhạt ở vạt đang đọc bài văn được điểm cao nhất
lớp của chính em. Một tiếng nổ, rồi nhiều tiếng nổ vang lên,
rồi im lặng. Rồi những lời hát chậm buồn kia vang lên, Bài ca dành
cho những xác người của Trịnh Công Sơn. Không nhạc đệm,
tiếng hát chậm buồn như lời kinh cầu, những hình ảnh tang thương
của chiến tranh trôi lướt qua.
Đấy là một cảnh ấn tượng trong Áo lụa Hà
Đông, bộ phim Việt Nam thứ hai mà em chủ động đi xem trong vòng
gần 2 năm qua (bộ phim trước là Mùa len trâu - tháng 7/2005).
Những thông tin về nó trên báo, trên mạng không
dồn dập sỗ sàng với những tuyên bố giật gân theo kiểu chọc
ngoáy vào trí tò mò, chỉ là một vài bài khen trên blog của
những người mê phim và một vài tin nhanh trong mục văn hoá -
giải trí thông báo về việc bộ phim đoạt giải Khán giả bình
chọn trong Liên hoan phim Pusan. Chừng đó xem ra không đủ để một
đứa lười xem phim và ít tò mò vớ vẩn như em phải động đậy
thân mình ra rạp. Nhưng khởi chiếu vào thời điểm mà đa số khán
giả còn chưa hoàn hồn sau khi dốc túi mua vé xem những bộ phim
Tết dễ dãi, phim này vô tình lâm vào thế bất lợi thiệt thòi,
điều đó khiến em có cảm giác không đành lòng. Khi xem xong phim
thì em thấy mình không đành lòng cũng đúng.
Nếu xếp thể loại (genre) theo kiểu IMDB (Internet
Movie Database), Áo lụa Hà Đông sẽ hân hạnh mang dòng chữ
drama vì nó có nghèo đói, chiến tranh, cái chết, đủ thành phần
cho một bộ phim bi. Kịch bản cũng không có gì gay cấn lắm: Dần
(Trương Ngọc Ánh) và Gù (Quốc Khánh) cùng thân phận ở đợ nên
thương nhau. Hai người bỏ trốn vào Nam năm 1954, định cư ở
Hội An, ngày ngày cào hến nuôi 4 con gái trong bối cảnh loạn
lạc vì chiến tranh và thiên tai. Hai con gái lớn lên đi học, không
có áo dài, Dần đem chiếc áo dài quà cưới ra sửa cho 2 đứa
mặc chung... Nói chung, bộ
phim giống một bài thơ buồn được trình bày đa phương tiện.
Về hình ảnh, màu phim hơi tối và xỉn, hợp
với câu chuyện buồn. Góc quay khá đẹp, có cả những pha quay
từ trực thăng và lưng chừng mặt nước gây cảm giác nôn nao.
Những cảnh huy động diễn viên quần chúng đông đảo (toàn người
gầy) như cảnh đoàn nổi dậy đốt đuốc đi trên đê hay cảnh
đoàn người di cư giữa đồng trông sướng mắt. Đoạn cuối có
cảnh chiếc thuyền nhỏ giữa dòng lũ và một slide show sử dụng
những hình ảnh tư liệu về chiến tranh kiểu như ảnh em bé
bỏng bom Napalm xen kẽ giữa những slice màn hình chỉ có một màu
đỏ khá ấn tượng. Em thích những cảnh quay tối của phim, vì ánh
sáng, ánh đèn vàng trên làn da ướt mưa của Dần trong ngôi chùa
hoang, ánh trăng bạc trên đầu bé Ngô khi có chiếc trực thăng bay
qua, đẹp nên thơ, cứ như ảnh em chụp í (hí hí).
Âm nhạc của phim được nhạc sĩ Đức Trí bao
thầu, một hỗn hợp từ dân ca, Văn Cao đến Trịnh Công Sơn và
giao hưởng. Ngoài phần nhạc xập xình (mà bạn em bảo) bắt chước
trắng trợn Tâm trạng khi yêu là có vẻ không ăn nhập lắm
đến tiết tấu phim ra, các phần khác rất ổn. Tiếng nhị bài Buồn
tàn thu của anh Gù da diết. Đoạn vọng cổ Lan Điệp của bé
Ngô ngộ nghĩnh. Hay nhất là cái đoạn cho bè nữ hát Bài ca dành
cho những xác người theo kiểu a capella. Nó hợp với cảnh
bới tìm xác học sinh sau khi trường học bị bom, hợp đến mức
khóc được.
Tất nhiên, Áo lụa Hà Đông có thể bị
một số nhà phê bình khó tính chê ở điểm này điểm kia (như bạn
em không thích đoạn giữa giữa vì nó có vẻ dài dòng câu giờ còn
em không thích thoại vì nó vẫn hơi cứng và nhân vật sinh ra ở Hội
An mà nói giọng Hà Nội chuẩn hơn cả em, nhà văn, người Hà Nội,
gốc!) nhưng nó thực sự là một tác phẩm điện ảnh tốt. Nó có
một kịch bản gây xúc động và một dàn diễn viên khá, nó có
những cảnh quay nên thơ và âm nhạc hay, nó nói về một thứ
rất Việt Nam là áo dài, nó đã đoạt một giải tàm tạm ở
một liên hoan phim tàm tạm, nó khiến chúng ta không xấu hổ khi
nhận nó là phim nước mình.
22/03/2007
© Tran Thu Trang
|